Hệ sinh thái FTA giúp doanh nghiệp chuẩn hóa, đáp ứng quy tắc xuất xứ
Tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi còn thấp so với tiềm năng
Giai đoạn 2021–2025, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, các bộ, ngành đã đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển thị trường nước ngoài. Ngành Công Thương giữ vai trò “người mở đường”, làm đầu mối:
-
Đàm phán, ký kết, nâng cấp các FTA;
-
Xây dựng và triển khai chương trình thực thi FTA trên thực tế.
Trong giai đoạn này, Việt Nam đã ký mới 4 FTA:
-
RCEP,
-
FTA Việt Nam – Israel,
-
FTA Việt Nam – Vương quốc Anh,
-
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam – UAE (CEPA),
nâng tổng số lên 17 FTA với 65 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại đa biên, cho biết các FTA không chỉ đóng góp cho tăng trưởng xuất nhập khẩu, mà còn:
-
Thúc đẩy hoàn thiện thể chế,
-
Nâng cao năng lực cạnh tranh,
-
Định vị lại vai trò của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Tuy nhiên, tỷ lệ tận dụng ưu đãi FTA vẫn còn thấp, mới đạt trung bình 32–33%. Cụ thể:
-
CPTPP: khoảng 16%;
-
UKVFTA: khoảng 38%;
-
EVFTA: khoảng 35%.
Theo ông Khanh, nguyên nhân đến từ cả phía doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý:
-
Nhiều doanh nghiệp còn tư duy “thích gần, thích dễ”, thấy đủ rồi thì không muốn nâng tầm thương hiệu hay mở rộng thị trường;
-
Thiếu thông tin thị trường, nguồn lực hạn chế, kết nối chuỗi yếu, cạnh tranh nội bộ chưa lành mạnh;
-
Chương trình hỗ trợ tận dụng FTA chưa rõ nét, có kế hoạch nhưng thiếu triển khai thực chất;
-
Ở địa phương, mỗi tỉnh thường chỉ có vài cán bộ kiêm nhiệm phụ trách, khó theo sát doanh nghiệp.
Quy tắc xuất xứ phức tạp, áp lực tiêu chuẩn bền vững tăng cao
Bà Hoàng Thị Liên, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam, cho rằng bền vững và truy xuất nguồn gốc hiện là thách thức lớn nhất, sau đó mới đến câu chuyện xây dựng thương hiệu.
Đơn cử như thị trường EU:
-
Hiện có hơn 535 tiêu chí về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật;
-
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc thời tiết, dịch bệnh nên người dân vẫn phải dùng nhiều biện pháp chăm sóc cây;
-
Xuất khẩu vào EU đòi hỏi giám sát chất lượng gần như tuyệt đối.
Bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cho biết:
-
Ở nhiều ngành hàng, tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi chỉ quanh 20–30%, thấp hơn nhiều so với tiềm năng;
-
Điều này cho thấy doanh nghiệp chưa thật sự bước vào sân chơi FTA một cách chủ động, ngay cả với FTA thế hệ mới.
Một nguyên nhân quan trọng là:
-
Quy tắc xuất xứ trong nhiều FTA vẫn phức tạp so với khả năng của doanh nghiệp;
-
Các ngành như dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ vẫn phụ thuộc lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu ngoài khối, dẫn đến không đáp ứng được yêu cầu xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế.
Bên cạnh đó, FTA thế hệ mới còn gắn chặt với:
-
Môi trường,
-
Lao động,
-
Phát thải carbon,
-
Truy xuất nguồn gốc toàn chuỗi.
Đây là những rào cản mới mà doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó đáp ứng nếu thiếu vốn và hệ thống quản trị hiện đại.
Doanh nghiệp còn né C/O vì sợ hậu kiểm, hạ tầng hỗ trợ FTA chưa “mượt”
Theo bà Trịnh Thị Thu Hiền, tham gia FTA thế hệ mới đòi hỏi doanh nghiệp đổi mới toàn diện, nhưng thực tế:
-
Không ít doanh nghiệp né sử dụng C/O vì lo bị hậu kiểm,
-
Thiếu nhân sự am hiểu quy tắc xuất xứ, ngại thủ tục chứng từ.
Hạ tầng hỗ trợ FTA cũng còn nhiều điểm nghẽn:
-
Thủ tục cấp C/O đã cải thiện nhưng chưa thật sự thuận lợi;
-
Số hóa đang triển khai nhưng chưa đồng bộ;
-
Một số giấy tờ bổ sung, quy trình kiểm tra còn mất nhiều thời gian, làm doanh nghiệp nản, không đăng ký ưu đãi.
Ngoài ra, thiếu liên kết chuỗi giá trị trong nước khiến:
-
Công nghiệp hỗ trợ chưa đủ năng lực cung ứng nguyên phụ liệu nội khối;
-
Khó đạt tỷ lệ nội địa hóa theo tiêu chí xuất xứ.
Điều đó cho thấy tận dụng FTA không chỉ là câu chuyện pháp lý, mà là bài toán cơ cấu lại ngành, nâng cấp chuỗi cung ứng.
Xây dựng Hệ sinh thái FTA: kết nối chuỗi giá trị, chuẩn hóa nguồn gốc
Để tháo gỡ các nút thắt, Bộ Công Thương cho rằng cần xây dựng một Hệ sinh thái FTA – mô hình liên kết đa bên giữa tất cả các chủ thể trong chuỗi giá trị.
Chính phủ đã chỉ đạo, giao Bộ Công Thương xây dựng Đề án Hệ sinh thái hỗ trợ các ngành hàng tận dụng ưu đãi FTA. Hiện Bộ đang hoàn tất đề án.
Theo ông Ngô Chung Khanh, Hệ sinh thái FTA sẽ là mạng lưới kết nối toàn diện giữa:
-
Doanh nghiệp sản xuất, chế biến;
-
Đơn vị logistics, tài chính – tín dụng;
-
Hiệp hội ngành hàng;
-
Cơ quan quản lý nhà nước.
Mục tiêu:
-
Hỗ trợ doanh nghiệp tối ưu hóa lợi ích từ FTA;
-
Nâng cao năng lực cạnh tranh;
-
Thúc đẩy hợp tác công – tư;
-
Hình thành văn hóa kết nối, chia sẻ thông tin, hỗ trợ lẫn nhau.
Hệ sinh thái FTA: Minh bạch hóa xuất xứ, mở khóa ưu đãi thuế
Ông Ngô Chung Khanh nhấn mạnh, tham gia vào Hệ sinh thái tận dụng FTA sẽ giúp doanh nghiệp:
-
Minh bạch hóa nguồn gốc xuất xứ;
-
Chuẩn hóa quy trình đáp ứng quy tắc xuất xứ tại thị trường nhập khẩu;
-
Từ đó tăng tỷ lệ được cấp C/O ưu đãi.
“Một lô hàng đáp ứng quy tắc xuất xứ, có Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) đồng nghĩa với việc được chứng nhận nguồn gốc sản xuất rõ ràng, minh bạch và đây là điều kiện tiên quyết để hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế quan theo các cam kết thương mại mà Việt Nam đã ký kết”, ông Khanh khẳng định.
Song song với xây dựng Hệ sinh thái FTA, Bộ Công Thương đề xuất triển khai đồng bộ các giải pháp:
-
Nâng cao nhận thức và tư duy FTA cho doanh nghiệp;
-
Đào tạo chuyên sâu về quy tắc xuất xứ, C/O, truy xuất nguồn gốc;
-
Đầu tư hạ tầng kiểm định, phòng thí nghiệm, cơ sở dữ liệu số;
-
Hỗ trợ tài chính và tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa;
-
Kết nối thông tin thị trường quốc tế, cảnh báo sớm rào cản kỹ thuật.
Chỉ khi các yếu tố này được triển khai một cách hệ thống, cơ hội từ FTA mới thực sự được chuyển hóa thành tăng trưởng xuất khẩu bền vững cho Việt Nam.
Nguồn: Báo Công Thương